Nhiều người vẫn giễu cợt lối tư duy lạc quan vốn vẫn hy vọng rằng “mọi thứ lần này sẽ khác”, nhưng trong một nền kinh tế mạo hiểm, thì mọi việc quả là như vậy. Các mô hình thống kê không xét đến tính đặc thù của mỗi sự kiện, mà coi chúng như những trái banh trong chai chỉ khác nhau về đường kính hay màu sắc.
Sự
trỗi dậy của hoạt động ra quyết định mang tính máy móc
Cách thức người ta đưa ra các quyết
định theo hướng từ trên xuống cũng quan trọng như việc vấn đề gì được
quản lý theo kiểu tập trung. Những người lãnh đạo có thể đưa ra đánh
giá theo trường hợp cụ thể – hãy nghĩ tới những đánh giá của Henry
Ford hay chỉ lệnh đặc trưng của Anna Wintour – tổng biên tập tạp chí
Vogue – về thiết kế sản phẩm. Thay vào đó, những quy tắc mang tính
máy móc được đưa ra để áp đặt thực thi quyền kiểm soát: Bảng yết
giá hoặc các công thức có thể thay thế sự linh hoạt và óc phán đoán
về giá cả của người bán hàng.
Những xã hội và tổ chức năng động kết
hợp sự đánh giá theo trường hợp cụ thể với ít nhiều các quy tắc cố
định, cũng giống như khi họ học cách cân bằng giữa quyền kiểm soát
và quyền tự trị. Ví dụ, khi đưa ra quyết định về tiền thưởng, nhiều
tổ chức thường kết hợp xem xét đánh giá của người quản lý về hiệu
quả làm việc của cấp dưới và sự thể hiện của các nhân viên, dựa trên
những mục tiêu có thể đo lường được. Hệ thống pháp lý phụ thuộc
vào tiền lệ cũng như các quy tắc đã được ấn định, kết hợp với
việc xem xét thực tế trong từng tình huống. Thầy thuốc phải đưa ra
những đánh giá tại chỗ, nhưng họ cũng thấy rằng việc dựa vào bảng
liệt kê những mục cần kiểm tra có thể giúp giảm đáng kể các sai
sót trong phòng phẫu thuật.
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin này
đã thay đổi cán cân giữa đánh giá và quy tắc, mang lại cú hích mạnh
mẽ về kinh tế và tâm lý cho hoạt động đưa ra quyết định không sử
dụng đánh giá cá nhân. Nếu như máy tính Deep Blue của IBM có thể
được lập trình để đánh bại kỳ thủ thế giới và máy tính Watson của
hãng này có thể học cách chiến thắng trong cuộc thi Jeopardy!, thì chúng còn có thể làm được gì nữa?
Trong một số trường hợp, máy tính rõ ràng đã thể hiện sự vượt
trội so với khả năng phán đoán của con người. Máy tính tốn ít nguyên
vật liệu hơn trong khi cắt vải và da để sản xuất áo hay giầy. Chúng
cũng giỏi hơn con người trong việc tận dụng cả một đội xe tải lớn, dàn
mạch điện trong thiết kế chip, quản lý nhà máy điện kim.
Khả năng vượt
trội của máy tính khi thực hiện các phép toán và mô phỏng thường
mang lại nhiều lợi thế trong việc kiểm soát những đối tượng bị động
hoặc vô tri, vốn tuân theo những quy luật của tự nhiên (hoặc trong một
số trường hợp là logic hình học hoặc tư duy diễn dịch) và vốn không cố
can thiệp vào những gì các chương trình máy tính mong muốn đạt được.
Sự quản lý tự động hóa công việc của con người sao cho hiệu quả thì
lại xa vời hơn nhiều.
Do những quy
luật của tự nhiên và suy luận toán học không thể tiên đoán được cách
hành xử, các thuật toán được xây dựng dựa trên những mô hình thống
kê. Nhưng dù những mô hình này có phức tạp về mặt kinh tế lượng đến
đâu, rốt cuộc thì chúng cũng chỉ là một dạng thức đơn giản hóa của
lịch sử, một bản tóm tắt bằng số học cho những gì xảy ra trong quá
khứ. (Những giả định đơn giản hóa của phần lớn các mô hình thống kê
trong thực tế lớn đến mức chúng hầu như không bao giờ có thể tái
dựng thành công dữ liệu trước đó được dùng để xây dựng nên chính các
mô hình đó.) Những mô hình này mở ra nhiều xu hướng và kiểu mẫu lặp
lại, nhưng trong một xã hội năng động với vô vàn con người dám nghĩ dám
làm và luôn sáng tạo đưa ra nhiều lựa chọn khôn ngoan, chúng không thể
đưa ra tiên đoán đáng tin cậy.
Nhiều người vẫn
giễu cợt lối tư duy lạc quan vốn vẫn hy vọng rằng “mọi thứ lần này sẽ
khác”, nhưng trong một nền kinh tế mạo hiểm, thì mọi việc quả là như
vậy. Các mô hình thống kê không xét đến
tính đặc thù của mỗi sự kiện, mà coi chúng như những trái banh trong
chai chỉ khác nhau về đường kính hay màu sắc. Hơn nữa, các mô hình
thống kê về cách hành xử của con người có xu hướng chú trọng vào
một số ít biến. Tuy nhiên, việc bỏ qua các tính chất chỉ xảy ra một
lần và sự đa dạng trong từng tình huống, về cơ bản là không phù hợp
với cơ chế hoạt động của một nền kinh tế phi tập trung. Như Hayek đã
chỉ ra vào năm 1945, sự bất lực khi xử lý thông tin theo trường hợp
cụ thể khiến cho các tổ chức tập quyền kém linh hoạt.
Thậm chí những
công ty lúc đầu hoạt động suôn sẻ cũng có thể trở thành nạn nhân
của chính thành công của mình, vì các công ty khác sẽ nhanh chóng bắt
chước những sáng kiến thành công của họ. Các chương trình quản trị
lợi tức nhằm chất kín hành khách lên máy bay hoặc phương pháp sabermetrics[1] chú
trọng số lượng dùng để quản lý một đội bóng chày (Như được mô tả
trong cuốn Moneyball của Michael Lewis) có thể có hiệu quả
rất tốt đối với những hãng hàng không hay đội bóng đầu tiên áp dụng
chúng, nhưng sẽ dần mất đi hiệu quả khi áp dụng trên diện rộng. Hơn
nữa, không giống như những đội máy bay hay các quân cờ, con người ta
không phải không dễ bị kiểm soát. Họ học cách chơi khăm những chương
trình muốn tìm cách điều khiển hành vi của họ.Tuổi đời của một mô
hình máy móc nhằm kiểm soát hành động của con người là tương đối
ngắn.
Điều này không có nghĩa là các chương
trình kiểm soát thống kê và khai thác dữ liệu là vô dụng trong các
công việc có yếu tố con người. Chúng hoàn toàn có thể bóc trần những
giả thuyết và định kiến sai lầm cũng như đề xuất các quy tắc theo
kinh nghiệm [2]
mới. Phải đối mặt với rất nhiều lựa chọn (ví dụ như khi hàng nghìn
ứng viên cho chỉ một công việc), chúng có thể sàng lọc danh sách một
cách nhanh chóng và khách quan. Nhưng những tiên đoán về hành động
của con người dựa trên những kiểu mẫu thống kê lại nguy hiểm khi được
sử dụng để thay thế cho việc đánh giá kĩ lưỡng theo trường hợp cụ
thể. Dù sao chúng vẫn còn được ưa chuộng. Điều này thể hiện rõ
ràng – hay nguy hiểm nhất – trong ngành tài chính.
Ngành
tài chính cứng nhắc
Trong một nền kinh tế mạo hiểm, những
lựa chọn mang tính phi tập trung, chủ quan của những người tạo nên những
đổi mới cũng như người sử dụng chúng đòi hỏi phải có những ý kiến
phi tập trung, chủ quan của những người đánh giá yêu cầu cấp vốn.
Nhà tài trợ nên đóng vai trò của người giáo viên môn Tiếng Anh giúp
cải thiện bài luận của sinh viên, chứ không phải vai trò của giáo
viên toán chấm điểm bài kiểm tra đại số – nói gì đến một cái máy
chấm điểm SAT tự động. Tuy nhiên, trong ngành tài chính, các cơ chế
cấp vốn ngày càng trở nên tập trung và mang tính máy móc. Chúng
không còn phản ảnh nền kinh tế phi tập trung mà đáng lẽ chúng phục
vụ.
Sự thiếu hụt óc phán đoán bấy
lâu nay đã tỏ ra tiêu cực không chỉ ở trong các lĩnh vực tiên phong của
nền kinh tế: Những mối liên kết tạo nên nền kinh tế hiện đại này
quá năng động khiến cho các nhà tài trợ chẳng còn nhiều cơ sở để mà
bám víu vào sự lặp lại của lịch sử hay những sự kiện xảy đến theo
quy luật có thể tiên đoán được. Các ngành có vẻ đã bão hòa rồi và
không mới mẻ lại thường có nhiều đổi mới.
Thị trường nhà ở là một ví dụ điển
hình. Khi các công ty Nhật Bản tìm cách tạo ra nhiều chiếc xe hơi
đáng mơ ước hơn so với GM, Ford, và Chrysler, giá cả nhà đất ở Detroit
giảm mạnh. Mức giá trung bình cho một ngôi nhà tại đó giảm xuống
còn 15,000 đô-la trong tháng 10 năm 2009 từ gần
$98,000 vào năm 2003, biến những ước tính về tỷ lệ vỡ nợ khi vay thế
chấp dựa trên lịch sử trở nên vô nghĩa.
Mô hình cho vay truyền thống được xây
dựng xoay quanh óc phán đoán dựa vào tình huống cụ thể. Những người
mua nhà sẽ đăng ký vay từ ngân hàng nơi họ sinh sống, ngân hàng mà họ
thường đã có mối quan hệ từ trước. Một nhân viên ngân hàng sẽ xem
xét từng đơn đăng ký vay và đưa ra đánh giá, xét đến những gì người
đó biết về người đi vay, về chủ lao động của anh ta, về tài sản của anh
ta, cũng như về các điều kiện thị trường địa phương. Người này cũng
sẽ xem xét lịch sử – những gì đã xảy xa với giá cả nhà đất, bản
theo dõi về người vay và các cá nhân khác có hoàn cảnh tương tự.
Nhưng hoạt động cho vay được thực hiện tốt cũng đòi hỏi các đánh
giá liên quan đến tương lai – đánh giá về mức độ tương quan của tương
lai so với quá khứ. Cơ chế đối thoại và mối quan hệ cũng quan trọng:
Nhân viên ngân hàng sẽ trao đổi với người đi vay để thật sự chắc chắn mong
muốn và dự định của họ. Việc giữ quan hệ sau khi cho vay nhằm giúp đưa
ra những đánh giá về điều khoản điều chỉnh khi cần thiết.
Qua vài thập kỷ, ngành tài chính mang
tính máy móc và tập trung hóa đã chèn ép mô hình truyền thống này.
Các nhân viên tín dụng phải nhường chỗ cho các nhà môi giới vay thế chấp.
Vào đỉnh điểm của giai đoạn bùng nổ về nhà đất, trong năm 2004,
khoảng 53,000 công ty môi giới vay thế chấp, với khoảng 418,700 nhân viên,
đã tạo ra 68% các khoản vay về nhà ở tại Mỹ. Nói cách khác, dưới
một phần ba tổng số các khoản vay xuất phát từ tổ chức cho vay
thực. Vai trò của các công ty môi giới này trong qua trình cấp tín
dụng chủ yếu là giúp người đăng ký vay điền đơn. Thực tế, giờ đây
hầu như chẳng có ai lại đưa ra những đánh giá về tín chấp theo
trường hợp cụ thể. Các khoản vay thế chấp được cấp hoặc bị từ
chối (và các sản phẩm vay thế chấp mới như khoản vay thế chấp với
lãi suất thay đổi lại được tạo ra) dựa trên những mô hình phức tạp mà
có lẽ được tạo ra bởi một số nhà khoa học tên lửa ở nơi rất xa nào đó,
và rất ít dựa vào thực tế tại địa phương.
Quá trình chứng khoán hóa và bán các
khoản vay thế chấp có nghĩa là việc cho vay của các công ty làm về tài
chính không còn bị giới hạn bởi cơ sở tiền gửi hay vốn của chúng
nữa, điều này cho phép một số tổ chức nắm giữ thị phần rất lớn.
Countrywide Financial, vốn được thành lập vào năm 1969, đã lớn mạnh từ
một cơ sở chỉ có hai người thành một đại gia trong lĩnh vực cho vay
thế chấp với khoảng 500 chi nhánh. Trước khi công ty này phá sản, vào
năm 2007, nó đã tạo ra gần một phần năm số lượng các khoản vay thế
chấp ở Mỹ. Các cơ quan vừa mang tính nhà nước vừa mang tính tư nhân
như Hiệp hội cho vay Thế
chấp Nhà ở Liên bang (Fannie Mae)
hay Công ty Thế
chấp cho vay mua nhà Liên bang (Freddie Mac) đã khiến cho vai trò của Countrywide
có vẻ không lớn. Khi Bộ tài chính mua lại hai tổ chức này, vào năm
2008, chúng đã nắm giữ hay bảo đảm khoảng một nửa số khoản vay thế
chấp hiện có trị giá 12 nghìn tỷ đô-la của đất nước. Kể từ đó,
thị phần của hai công ty này cứ thế không ngừng tăng vọt.
Những người mua các khoản vay thế chấp
được chứng khoán hóa không đưa ra các quyết định tín dụng dựa theo
trường hợp cụ thể. Ví dụ, người mua giấy tờ của Fannie Mae hay
Freddie Mac khi đó đã không, và bây giờ vẫn không đưa ra đánh giá về
rủi ro mà chủ nhân căn nhà bị mất khả năng thanh toán dựa trên khoản
vay thế chấp cơ sở. Thay vào đó, họ coi rằng mình đang mua nợ của
chính phủ – và kiếm được mức lời cao hơn là từ trái phiếu Kho bạc.
Ngay cả khi chứng khoán không được bảo đảm, người mua cũng bỏ qua mức
tín nhiệm tín dụng của từng khoản vay thế chấp. Thay vào đó, họ phụ
thuộc vào những mô hình của các thầy phù thủy đã tạo nên những tiêu
chuẩn về bảo đảm, vào một sốngân hàng (như Lehman, Goldman, và Citicorp) đã
chứng khoán hóa các khoản vay này, và vào ba công ty xếp hạng tín
nhiệm bảo đảm cho khả năng thanh toán của các chứng khoán này.
Việc không dùng đến óc phán đoán cũng
khiến phần lớn các sản phẩm chứng khoán phái sinh rơi vào tay một
số ít các tổ chức siêu lớn, đặt ra những nguy cơ rủi ro hệ thống mà
những người lãnh đạo của các tổ chức này không thể kiểm soát được.
(Vui lòng xem phần phụ chú “Công cụ phái sinh cho Robot”.)
Sự
sụp đổ.
Quá trình tự động hóa ngành tài chính
này không đưa đến nhiều điều tốt đẹp. Việc kiểm tra ít dựa theo
trường hợp cụ thể đã dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hợp lý
trong nền kinh tế thực. Trong bong bóng nhà đất gần đây, những tổ
chức cho vay, vốn không thẩm định
chi tiết[3] lại gia hạn các khoản vay thế chấp cho
những người đi vay liều lĩnh, đã khiến cho giá cả trở nên không thể
kham nổi đối với những người mua nhà cẩn trọng.
Sự thay
thế các mối quan hệ đang phát triển bằng việc ký kết chóng vánh các
thỏa ước độc lập [4] được
chứng khoán hóa về cơ bản đã hủy hoại khả năng thích ứng của các
điều khoản tài chính. Không một hợp đồng nào có thể dự đoán được
tất cả các sự kiện ngẫu nhiên. Nhưng hoạt động tài chính được chứng
khoán hóa lại khiến cho việc sửa đổi là bất khả thi; vì việc thương
thảo lại các điều khoản là rất khó, người đi vay và người cho vay
phải trung thành với thương vụ được đề ra ban đầu. Một số nghiên cứu
gần đây cho thấy, so với các khoản vay thế chấp thông thường, các khoản
vay thế chấp được chứng khoán hóa có khả năng bị các ngân
hàng thu hồi để thế nợ cao hơn nếu như người đi vay không thanh toán
đúng hạn.
Khi việc
ra quyết định bị tập trung trong tay của một số ít các chủ ngân hàng,
tổ chức tài chính, hay mô hình định lượng, những sai sót của những
nhân vật này gây tác động tiêu cực đến phúc lợi của các cá nhân cũng
như doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Tài chính phi tập trung không
miễn nhiễm trước những rủi ro hệ thống; ví dụ, cá nhân những nhà tài trợ
có thể theo đám đông trong việc giảm khoản tiền phải đóng ban đầu để
vay mua nhà. Nhưng cách hành xử này liên quan đến một bệnh lý xã
hội. Với sự quản lý tập trung, quá trình này chẳng cần đến chứng
điên cuồng rộng khắp nào cả – chỉ cần một vài mô hình cho vay có sai
sót hoặc vài vị CEO ít có khả năng nhận thức được những rủi ro mà cấp
dưới chọn chấp nhận.
Có một
sự khác biệt rõ ràng giữa quá trình chứng khoán khóa nợ có từ lâu
đời (do các công ty đường sắt và điện nước thực hiện) với quá trình
chứng khoán hóa khoản vay thế chấp và vay tiêu dùng mới đây. Sự phát
hành trái phiếu đường sắt và điện nước không xóa bỏ óc phán đoán
chính thể, tùy theo trường hợp cụ thể. Đúng hơn là, một số công ty
bảo đảm và đánh giá tín nhiệm đóng vai trò then chốt trong việc đưa
ra những đánh giá này, thường là sau khi đã bàn bảo kĩ lưỡng với người
đi vay. Hơn nữa, lợi thế kinh tế theo quy mô trong ngành đường sắt hay
ngành điện có thể bù đắp cho việc tập trung quyền được ra quyết định. Ngược
lại, khi các khoản vay mua nhà và ô tô được chứng khoán hóa, sự tập
trung quyền được ra quyết định này lại không đi kèm với bất kì phân tích
chi tiết nào về điều kiện của người đi vay. Lợi ích giả định của
loại quyết định tín dụng rập khuôn là chi phí cho vay thấp hơn. Nhưng
việc cho những người không có khả năng trả nợ vay với chi phí thấp
là điều không ai muốn. Việc sản xuất hàng loạt những khoản cho vay tiêu
dùng không giống như sản xuất hàng hóa tiêu dùng hàng loạt. Hậu quả
dài hạn của hoạt động cho vay quá mức có thể rất tai hại đối với
người đi vay, chủ nợ, cũng như xã hội nói chung.
Khi các
nhà lập pháp và nhà quản lý phản ứng với cuộc khủng hoảng tài
chính, họ không đánh giá hoạt động chứng khoán hóa một cách kĩ
lưỡng, không xem xét thời điểm và khả năng liệu nó có lấn át hoạt động
cho vay truyền thống; họ đơn thuần chỉ cố gắng phục hồi quá trình
chứng khoán hóa trở lại với mức trước khủng hoảng. Quả thật, có
một số cải thiện về tính ổn định: Các luật mới yêu cầu ngân hàng
chỉ được nắm giữ 5% khoản vay thế chấp dưới chuẩn được chứng khoán
hóa. Các công ty xếp hạng tín dụng chịu nhiều chỉ trích và hứa hẹn sẽ
cải thiện các mô hình của mình và mang lại tính minh bạch tốt hơn.
Nhưng các nhà hoạch định chính sách lại né tránh câu hỏi liệu các
khoản vay cấp cho người mua nhà và người tiêu dùng dựa trên điểm tín
dụng được tính toán bằng máy tính có nên được chứng khoán hóa và
xếp hạng hay không, trong trường hợp không có bất kì sự thẩm tra trực
tiếp nào đối với người đi vay.
Trong
bài viết này tôi không tranh luận xem Nghị viện hay các nhà quản lý
nên quyết định xem mức độ hay loại chứng khoán hóa như thế nào là
hợp lý. Việc cấm các công cụ phái sinh hàng loạt hay kiểm soát
chúng chặt chẽ sẽ là hành động không sáng suốt: cấm đoán hàng loạt
chẳng mấy khi hiệu quả, và những điều khoản hạn chế với những khác biệt
nhỏ chỉ tạo thêm việc cho các nhà quản lý, người vận động hành lang,
và luật sư. Cải cách nên chú trọng vào việc khôi phục óc phán đoán
cho những tổ chức, nơi sự thiếu vắng óc phán đoán có tác hại nhất
– cụ thể là các ngân hàng (Vui lòng xem phần phụ chú “Sửa đổi ngành
dịch vụ tài chính”.)
Một đạo luật cân bằng
“Hãy
đối mặt với điều đó đi,” nhà thông thái Paul Saffo Thung lũng Silicon
thẳng thừng tuyên bố, “đổi mới là một hoạt động ưu tú.” Tuy nhiên
không phải như vậy. Steve Jobs có thể chỉ đạo quá trình
tạo ra những chiếc iPhone và iPads, nhưng sự thành công của hai sản
phẩm này đòi hỏi sự đóng góp của hàng nghìn kĩ sư, nhà thiết kế,
chuyên viên marketing, luật sư về bản quyền – được Apple và mạng lưới
các nhà cung cấp và nhà phát triển ứng dụng và tiện ích thuê – cũng
như là sự mạo hiểm của hàng triệu người tiêu dùng. Nền kinh tế hiện
đại làm cho sự thay đổi trở nên thường xuyên và ở khắp mọi nơi. Nhiều
người có cơ hội để vươn lên; rất ít người có thể đứng yên mà trụ được. Dù
cho họ có thích hay không thì những nhà sản xuất khoai tây chiên và
chip bán dẫn – cùng với những người cho vay, nhà quản lý nhà nước và
các khách hàng – tất cả đều phải tính toán xem chuyện gì sẽ xảy
đến tiếp theo.
Ngược đời là, những tiến bộ lớn lao
trở thành hiện thực thông qua việc trao cho rất nhiều người cơ hội sử
dụng óc phán đoán và trí tưởng tượng lại làm nảy sinh ra sự cần
thiết phải có quyền kiểm soát tập trung hơn. Quyền quản lý không
đáng kể của chính phủ hay các tổ chức tư nhân có thể xuất hiện
trong xã hội chỉ có tiểu nông của Jefferson, nhưng không thể áp dụng được
trong một nền kinh tế tiên tiến với hoạt động phức tạp diễn ra trên
quy mô lớn.
Do đó thách thức là giữ cho quyền kiểm
soát của quyền lực con người – hay của các mô hình máy tính – trong
phạm vi thận trọng. Tôi có thể nghĩ đến một vài hướng đi tổng thể như
sau: hoạt động kiểm soát sử dụng máy tính có hiệu quả nhất đối
với các sản phẩm hay quá trình vô tri vốn có thể được che chắn bảo
vệ sao cho những biến động về điều kiện (như nhiệt độ hay độ ẩm bên
trong nhà máy hay bao bì sản phẩm) có thể được tối thiểu hóa; và
khi đó phản hồi từ các kết quả đo được có thể liên lục được sử
dụng để điều chỉnh hay cải thiện những thuật toán về đưa ra quyết
định. Máy tính cũng hoạt động tốt khi mà, tương tự như cách sắp xếp
quân cờ trên bàn cờ, số lượng các kết quả khả thi là rất lớn (thực
tế, độ lớn này thường mang lai lại cho máy tính lợi thế riêng) nhưng
tất cả chúng đều tuân theo những quy luật nhất định. Ngược lại, óc
phán đoán của con người được ưa dùng khi việc bảo vệ khó khăn, các
kết quả không rõ ràng, và các khả năng là để ngỏ.
Tuy nhiên, rốt cuộc thì việc xác định phạm
vi phù hợp cho óc phán đoán bản thân nó lại là một vấn đề về óc
phán đoán. Kinh nghiệm lâu đời đã dạy cho chúng ta cách tạo lập sự
cân bằng trong lĩnh vực do con người kiểm soát tập trung. Chúng ta
không còn mù quáng tin tưởng vào khoa học quản lý, các chuyên
gia về thời gian và chuyển động, hay sự thông thái của các nhà
lãnh đạo và các ủy bản trong doanh nghiệp; nhưng chúng ta quả thực phụ
thuộc vào các nhà lãnh đạo cũng như các quy tắc để thiết lập được
một trật tự nào đấy. Những mô hình kinh tế lượng bí ẩn thì còn
khó kết hợp với óc phán đoán của con người hơn. Những chỉ lệnh của
chúng, vốn cứng nhắc và gây bế tắc như của các chuyên gia nghiên cứu thời
gian và chuyển động, là vô hình và do đó việc đối chiếu càng khó khăn
hơn. Tuy nhiên nếu như chúng ta duy trì tính ưu việt của óc phán đoán
của con người, chúng ta phải học cách khai thác và kiểm soát những
mô hình này, chứ không phải chỉ biết chấp nhận chúng.
[Phụ chú 1: Công cụ phái sinh cho rô bốt]
Các
phương pháp sử dụng rô bốt đã mở ra những chân trời mới trong hoạt
động đầu cơ mạo hiểm, được quảng cáo như những cách tân trong san sẻ và
kiểm soát rủi ro.
Giá
trị danh nghĩa của các công cụ phái sinh trên sàn OTC tăng gấp hơn sáu
lần, từ 95 nghìn tỷ đô la lên đến 684
nghìn tỷ đô la, trong giai đoạn năm 2000 đến giữa năm 2008 – trong quá
trình gây ra (hoặc ít nhất là làm trầm trọng thêm) cuộc khủng hoảng
tài chính. Các công cụ phái sinh vốn bảo hiểm các khoản vay không
thanh toán được – thứ mà ngày nay ta gọi là hợp đồng hoán đổi
nợ xấu (CDS) đầy tai tiếng – đã mang lại cho người mua những
gói vay thế chấp dưới chuẩn cảm giác không chính xác về tính an
toàn, do đó gây ra sự tăng trưởng cực lớn của thị trường dưới chuẩn
này. Do các hợp đồng hoán đổi nợ xấu cũng là một công cụ để đầu
cơ với tỷ lệ sử dụng đòn bẩy cao – đồng thời cũng mơ hồ – nỗi lo
ngại rằng các tổ chức tài chính phải đối mặt với những khoản lỗ
khổng lồ, khiến cho thị trường tín dụng bị đóng băng vào mùa thu năm
2008.
Bản
thân các công cụ phái sinh đã đồng hành
với chúng ta trong hàng thế kỷ và có thể giúp thực hiện những mục
tiêu kinh tế hữu ích. Tuy nhiên, sự bùng nổ công cụ phái sinh thời
hiện đại, lại được xây dựng xoay quanh một hướng tiếp cận rủi ro còn
máy móc và thiếu sót. Quan điểm truyền thống về rủi ro đã chú ý
đến nhiều khía cạnh của nó, trong số đó tránh né sự định lượng,
và tạo nên tính đặc trưng trong từng trường hợp đơn lẻ. Quan điểm
hiện đại xác nhận rằng những yếu tố đặc trưng theo từng trường hợp
có thể được đa dạng hóa, và rủi ro có thể đươc giảm thiểu đến một con
số mà giá trị của nó có thể rút ra được từ các phân tích thông kê
về dữ liệu lịch sử.
Những
mô hình ấn định giá cho các hợp đồng quyền chọn cổ phiếu chỉ dùng một
số ít biến là một trường hợp minh họa đơn giản nhất. Biến quan trọng
nhất là tính biến động – một phép đo đo lường mức độ biến động của
cổ phiếu trong tương lai. Giá trị đúng của nó chỉ có Chúa mới biết
được. Những người tham gia giao dịch do đó vin vào tính biến động
trong quá khứ, điều chỉnh một chút để phản ảnh những dự đoán của họ
về tương lai. Những ước tính về tính biến động được đưa ra chủ yếu
dựa trên những giá trị lịch sử, có thể bị sai lệch lớn, vào những thời
điểm không may nhất.. Nhưng do những mô hình này không đòi hỏi các phân
tích tốn sức, tùy theo trường hợp cụ thể về công ty hay người đi vay
thực tế, chúng nhanh chóng trở nên phổ biến sau khi được giới thiệu
vào đầu những năm 1970. Kể từ đó cách tiếp cận cơ bản như thế đã
được sử dụng để ấn định giá thị trường cho tất cả các loại hợp
đồng phái sinh. Những quan niệm về rủi ro theo cách tiếp cận từ trên
xuống vàđầy trừu tượng như thế – hệ số “delta” của một loại chứng
khoán phái sinh hay “beta” của một danh mục đầu tư cổ phiếu – cho phép
các CEO của những công ty tài chính lớn, ít nhất về mặt nguyên tắc,
có thể quản lý nhiều hoạt động mà không cần hiểu rõ bất kì hoạt
động nào. Các nhà quản lý nhà nước, trước đấy đã từng chú trọng vào
quá trình kiểm tra theo từng khoản vay của các ngân hàng, cũng đã
theo đuổi hướng tiếp cận quản trị rủi ro theo hướng từ trên xuống. Việc
xem xét các rủi ro riêng lẻ đã bị bỏ ngỏ.
[Phụ chú 2: Sửa đổi ngành dịch vụ tài
chính]
Các
nhà lập pháp và nhà quản lý có thể làm gì trước sự gia tăng của
tín dụng chuẩn hóa và vi tính hóa cùng với những mối nguy hại kèm
theo của sự gia tăng này?
Việc
đưa thêm nhiều luật để giúp hộp đen hoạt động tốt hơn không phải là câu
trả lời. Đúng ra, chúng ta cần phải nói không với hành động chấp
nhận rủi ro mà không chút phán đoán của các ngân hàng (mà sự liều lĩnh
của họ ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.)
Tôi
đề xuất rằng chúng ta nên phục hồi nghiệp vụ ngân hàng kiểu cũ, theo
đó các nhân viên ngân hàng nắm rõ về những người mà họ cho vay. Điều
này có thể được thực hiện bằng cách hạn chế những gì các ngân
hàng có thể làm: cụ thể là, họ không nên làm gì ngoài việc cho các
cá nhân và doanh nghiệp phi tài chính vay – sau khi thực hiện thẩm định
chi tiết - và thực hiện những giao dịch phòng vệ đơn giản. Tiêu chuẩn
cho vay hoặc bảm đảm sẽ chỉ phụ thuộc vào khả năng liệu nó có thể
được giám sát bởi các ông chủ ngân hàng và giám sát viên, những
người không có bằng tiến sĩ tài chính, và liệu nguy cơ này có phải
là một nguy cơ mà họ chấp nhận nếu như tiền cho vay là tiền túi của
họ – nói cách khác là một quy tắc của người cho vay thận trọng.
Những
quy tắc này sẽ áp dụng với bất kỳ tổ chức nào nhận tiền gửi ngắn
hạn từ công chúng, dù nó có được gọi là ngân hàng hay không. Tất cả
những tổ chức khác – ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư phòng vệ, quỹ ủy
thác, và các tổ chức tương tự – có thể đổi mới và đầu cơ hết sức
mà không cần phải theo dõi giám sát thêm. Nhưng các tổ chức này cũng sẽ
không được phép giao dịch với hoặc nhận tín dụng từ các ngân hàng bị
quản lý, ngoại trừ các khoản vay được bảo đảm bằng các chứng khoán
thanh khoản chất lượng cao. Ví dụ, không mua hoặc cho vay dựa vào nghĩa
vụ nợ bảo đảm (CDO), và không cấp vốn cho các “bể chứa” khoản vay đang
đợi được chứng khoán hóa.
Ngành
tài chính cứng nhắc sẽ không biến mất, nhưng nó sẽ không gây hại đến
kế sinh nhai của chúng ta như chúng đã gây ra trong những năm gần đây.
[1]Sabermetrics: phương pháp phân tích thực nghiệm
áp dụng trong môn bóng chày (theo Wikipedia.org)
[2]'Rule of
thumb' có từ thumb là ngón tay cái. 'Rule of thumb' nghĩa đen là
phương pháp làm việc dựa vào ngón tay cái, và nghĩa bóng là phương
pháp thô sơ để đánh giá hay đo lường một cái gì, dựa trên kinh nghiệm
chứ không dựa vào sự chính xác. Sở dĩ người Mỹ dùng thành ngữ này
là vì từ giữa thế kỷ thứ 17 họ thường dùng ngón tay cái, hay bàn
tay, bàn chân để đo lường một đồ vật chứ không dùng cái thước. Ngoài
ra, những người sản xuất bia thường dùng ngón tay cái để đo nhiệt độ
của bia để xem khi nào bia tới độ uống được. (theo
http://www.journeyinlife.net)
[3] Due Diligence (DD): Rà soát đặc biệt,
hoặc Thẩm định chi tiết – là khái niệm dùng chung cho hoạt động khảo sát, thẩm
định, đánh giá, phân tích một dự án, một hoạt động kinh doanh hoặc một hoạt động
thực hiện trên cơ sở các tiêu chí đã đề ra từ trước. (Theo
http://maf.vn/due-diligence--ra-soat-dac-biet.html)
[4]Arm's Length Transaction: Giao dịch được
thực hiện bởi các bên không có liên quan hay không liên kết, như bởi một người
mua tự nguyện và một người bán tự nguyện, mỗi bên hành động vì lợi ích riêng của
chính họ. Việc định giá dựa trên các giao dịch như thế là cơ sở cho việc định
giá thị trường hợp lý. (Theo http://www.saga.vn)
0 Response to "SỰ THIẾU HỤT ÓC PHÁN ĐOÁN - KỲ 2 (KẾT THÚC)"
Đăng nhận xét