Hầu
hết mọi người đều nhìn thấy lợi thế của sản phẩm tre công nghiệp trong thời đại
ưu tiên bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, những bước đường trong thực tế của ngành
tre công nghiệp Việt Nam vẫn còn đầy chông gai khi doanh nghiệp còn non trẻ và
chưa có chính sách hỗ trợ sát sao.
Chiều ngày 30/8/2015, tại
Phòng Hội thảo Liên Việt – Đại học Ngoại Thương Hà Nội, The Keynesian
Association đã tổ chức hội thảo “Ngành tre công nghiệp Việt Nam – Cơ hội và
thách thức trước ngưỡng cửa hội nhập 2015” với sự góp mặt của các khách mời:
- Ông Vũ Trung Kiên, Giám đốc điều hành Công ty cổ phần sàn đẹp Hồng Ngọc.
- Thạc sĩ Lê Thế Bình, Giảng viên khoa Tài chính – Ngân hàng, Đại học Ngoại Thương Hà Nội.
- Thạc sĩ Đinh Hoàng Minh, Giảng viên khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại Thương Hà Nội.
- Ông Nguyễn Mạnh Dũng, Trưởng phòng chế biến và bảo quản lâm sản, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Hội thảo gồm hai phần chính:
Phần một: Phân
tích môi trường cạnh tranh của ngành tre công nghiệp Việt Nam dựa trên
mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Michael Porter.
Phần
hai: Những cơ hội và thách thức của ngành tre công
nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập 2015.
Mở đầu phần một, ông Vũ Trung
Kiên và ông Nguyễn Mạnh Dũng đã chia sẻ nhiều thông tin thực tế về các sản phẩm
tre và quy trình sản xuất tre công nghiệp. Cụ thể, hiện nay tre đã được đưa vào
sản xuất thành đồ nội thất, khung xe đạp, tấm lót đường trong công trình xây dựng.
Tre có nhiều lợi thế: độ bền cao (chịu được sức ép của xe tải hạng nặng), chịu
được mối mọt ngang với gỗ thịt. Đặc biệt, nguyên liệu tre có thể được tái tạo
nhanh chóng chỉ trong vòng 2 – 3 năm. Trong khi đó, để có được gỗ chất lượng tốt,
người ta phải phá những cánh rừng hàng chục năm tuổi. Vì vậy, sử dụng nguyên liệu
tre là góp phần bảo vệ rừng, ngăn chặn các tác động tiêu cực lên Trái Đất.
Tiếp đó, các khách mời đã cùng
thảo luận một số khía cạnh trong chuỗi cung ứng ngành tre công nghiệp Việt Nam.
>>> Về
nguyên liệu
Vùng nguyên liệu
cho tre công nghiệp chủ yếu tập trung ở tỉnh Thanh Hóa, với diện tích
khoảng 50,000 ha (số liệu năm 2004) và vẫn còn được tiếp tục phát
triển.Vùng nguyên liệu dồi dào như vậy cần 2000 doanh nghiệp sơ chế
cùng 150 doanh nghiệp gia công quy mô lớn. Tuy nhiên, hiện tại ở Thanh
Hóa chỉ có 30 doanh nghiệp sơ chế.
Có hai khó khăn
chính mà doanh nghiệp phải đối mặt trong vấn đề nguyên liệu. Thứ
nhất, doanh nghiệp chưa có khả năng kiểm soát chặt chẽ chất lượng,
số lượng và giá cả nguyên liệu do phải thu mua gián tiếp qua các đại
lý. Thứ hai, việc xác định tuổi cây đạt tiêu chuẩn khai thác vẫn dựa
vào cảm quan là chủ yếu nên sản phẩm đầu ra khó đồng đều về chất
lượng. Do đó cần có sự phối hợp giữa cơ quan quản lý và doanh
nghiệp đánh số vào cây. Ngoài ra, doanh nghiệp mới chỉ dùng được
35-45% cây tre để sản xuất, để có thể tận dụng được toàn bộ cây tre,
cần có một chuỗi sản xuất phục vụ cho nhiều ngành nghề khác nhau.
>>> Về mức độ cạnh
tranh
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành tre
là không mạnh trong khi giữa tre với các sản phẩm thay thế như gỗ là
tương đối. So với các sản phẩm từ gỗ, tre có những ưu điểm đáng chú
ý về giá trị thẩm mỹ và giá trị cho xã hội.
>>> Về thị trường
Tre công nghiệp hiện vẫn chưa phổ biến ở thị trường nội địa, mà được
xuất khẩu chủ yếu sang Bắc Mỹ, một số quốc gia châu Âu, và một
phần Thổ Nhĩ Kỳ. Thị trường xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn hơn do
các thị trường này chú trọng hơn đến các sản phẩm có lợi cho môi
trường, và các doanh nghiệp xuất khẩu cũng thu được lợi nhuận nhiều
hơn từ chính sách ưu đãi của nhà nước. Trong khi đó, thị trường trong
nước còn hạn hẹp vì người tiêu dùng chưa hiểu rõ được về các sản
phẩm tre công nghiệp.
Doanh
nghiệp tiếp cận thị trường chủ yếu qua kênh thương mại điện tử. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công
theo yêu cầu chứ chưa có thương hiệu trên thị trường thế giới.
Vậy với thực trạng như trên, ngành tre công nghiệp Việt Nam phải đối
mặt với những tác động như thế nào trước ngưỡng cửa hội nhập? Phần thảo luận thứ
hai giữa doanh nghiệp – chuyên gia – đại diện cơ quan quản lý Nhà nước đã làm
rõ một số vấn đề:
>>> Về cạnh tranh
Xét trên thị trường quốc tế, Trung Quốc đang là nước đứng đầu
trong ngành tre công nghiệp, và đương nhiên là đối thủ lớn nhất của tre công
nghiệp Việt Nam. ThS Đinh Hoàng Minh nhận
xét, Trung Quốc luôn đi đầu về giá cả và chi phí sản xuất trong khi
doanh nghiệp Việt Nam phải chịu mức tăng chi phí thông qua quá trình
thu mua gián tiếp. Giải pháp mà ThS Đinh Hoàng
Minh đề xuất là doanh nghiệp giao cho nông dân sản xuất khoán để giảm
khâu trung gian.Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý hơn đến vấn
đề quảng bá thương hiệu để thu hút các khách hàng.
>>> Về chính sách hỗ trợ ngành tre
Ông Nguyễn Mạnh Dũng cho biết hiện nay Việt Nam có 1.2 triệu
ha tre, chiếm 8.4% với tổng cộng 210 loài. Tuy nhiên, tre
nguyên liệu dành cho sản xuất công nghiệp vẫn chưa được phát triển đầy
đủ.Việt Nam mới chỉ có Quyết định 11 QĐ/TTCP 2011 về Chính sách phát
triển cây tre và Thông tư 13/2014 về phát triển vùng tre nguyên liệu.
Trong khi đó, từ những năm 1970, Trung Quốc đã bắt đầu một chương
trình phát triển ngành tre công nghiệp cấp quốc gia với ba giai đoạn.
Hiện họ đang ở giai đoạn tăng trưởng cao nhất.
Từ Chương trình tre Mê- kông, Philippines đã phê duyệt chương
trình phát triển tre của riêng họ. Chính phủ Phillippines đã thành lập
một Ủy ban riêng chịu trách nhiệm phát triển ngành tre công nghiệp, đặt mục
tiêu đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu tre. Đáng tiếc, Việt Nam đã không
nắm bắt được cơ hội khi Chương trình tre Mê-kông kết thúc để có được
một chương trình tre toàn diện như Philippines.
>>> Về vấn đề thu hút vốn
Xét trên phương diện của nhà đầu tư, ThS. Lê Thế Bình đã
đưa ra những ý kiến đáng chú ý về vấn đề vốn. Các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có quy mô nhỏ và ít tài sản thế chấp nên khó tiếp cận được
với nguồn vốn ngân hàng. Một hướng huy động khác của doanh nghiệp là
bán cổ phần. Tuy nhiên, bộ máy của các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới
chỉ chú trọng đến sản xuất và marketing chứ chưa chú ý đến vấn đề quản
trị nội bộ và quản trị tài chính.
Theo ThS. Lê Thế Bình, để nắm bắt cơ hội thu hút vốn đầu tư từ nhà
đầu tư nước ngoài khi Việt Nam hội nhập, các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp ngành tre nói riêng cần đảm bảo 3 tiêu chí: có báo cáo tài chính rõ
ràng, chứng minh được khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp, và có cổ
tức cho nhà đầu tư.
Ông Nguyễn Mạnh Dũng cũng đưa ra một số số liệu về vốn và
công suất tối thiểu để đầu tư trong ngành tre công nghiệp như sau:
Cơ sở sản xuất
|
Công suất tối thiểu
(m3 sản phẩm /ngày) |
Vốn đầu tư tối thiểu
(tỷ đồng) |
Tre ép thanh
|
30
|
15-20
|
Tre ép khối
|
30
|
20 - 25
|
Tấm lót đường
|
100
|
30 - 35
|
Ván sàn tre
|
10
|
40
|
So với cơ sở sản xuất ván ép từ gỗ rừng trồng, cần công
suất tối thiểu 200 m3 sản phẩm/ ngày và vốn đầu tư 130 tỷ đồng, rõ
ràng đầu tư trong ngành này có lợi thế hơn về vốn. Ngoài ra, nếu
đầu tư vào ngành tre công nghiệp với cơ cấu vốn 60% vốn chủ sở hữu, tỷ
lệ thu hồi vốn nội bộ IRR 49%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu là 45% thì thời gian hoàn vốn tối đa là 50 tháng.
ThS Lê Thế Bình cũng nhận định, các doanh nghiệp tre có lợi thế
khi hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nếu đầu tư vào đây, các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ giảm được rủi ro biến động tỷ giá hối đoái.
Có thể kết luận ngành tre công nghiệp Việt Nam là một ngành đáng để
đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Điều cần thiết của doanh nghiệp là phải
chứng minh được thực lực của mình mà thôi.
>>> Về nguồn nhân lực
Để phục vụ các ngành công nghiệp mới nói chung và ngành tre nói
riêng, ThS Đinh Hoàng Minh cho biết yêu cầu đào tạo xuất phát từ sự ưu
tiên dành cho ngành đó và tùy yêu cầu cụ thể về trình độ. Ngoài ra,
Việt Nam có thể học hỏi các quốc gia khác trong khu vực về đào tạo
nguồn nhân lực.
ThS Lê Thế Bình bổ sung rằng hiện nay hoạt động học tập
của sinh viên còn chưa gắn với hoạt động thực tế của doanh nghiệp,
gây lãng phí về nhân lực. Do đó sinh viên nên kết hợp hoạt động học
tập lý thuyết trên lớp với hoạt động thực tập tại doanh nghiệp ngay
từ năm thứ nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng nên mở cửa đón nhận
các sinh viên thực tập để hai phía đều có lợi.
Qua buổi hội thảo, có thể thấy
ngành tre công nghiệp đang đứng trước một cơ hội lớn để tiếp cận thị trường lớn
và thu hút vốn đầu tư nước ngoài khi Việt Nam hội nhập sâu rộng. Tuy nhiên,
nhìn về thực lực của ngành, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế gồm: nguồn nguyên liệu
chưa được chuẩn hóa, nghiên cứu và phát triển sản phẩm chưa được chú trọng mà
chủ yếu gia công theo đơn đặt hàng, khả năng quản lý tài chính chưa tốt. Mặt
khác, các chính sách hỗ trợ cũng chưa rõ ràng và hiệu quả chưa cao. Trong khi
đó, các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Philippines đã có chiến lược
toàn diện.
Do đó, trước ngưỡng cửa hội nhập
sắp tới, ngành tre cần thực hiện cải cách chính cách làm việc của mình, và cần
sự trợ lực mạnh mẽ từ phía Nhà nước để phát triển và tăng trưởng bền vững.
Một số thông tin về doanh nghiệp:
Tên công ty: Công ty cổ phần Sàn đẹp Hồng Ngọc
Địa chỉ: Phòng 1507, tòa nhà CT6, Khu đô thị Văn Khê - Hà Đông - Hà Nội
Các sản phẩm chính: Sàn tre các loại, Cầu thang tre, Coppha tre,...
Địa chỉ Website công ty: Tại đây
Một số thông tin về doanh nghiệp:
Tên công ty: Công ty cổ phần Sàn đẹp Hồng Ngọc
Địa chỉ: Phòng 1507, tòa nhà CT6, Khu đô thị Văn Khê - Hà Đông - Hà Nội
Các sản phẩm chính: Sàn tre các loại, Cầu thang tre, Coppha tre,...
Địa chỉ Website công ty: Tại đây
0 Response to "TRE CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC NGƯỠNG CỬA HỘI NHẬP: CẨN THẬN KẺO SẨY CHÂN!"
Đăng nhận xét