Dịch
giả: Bùi Hồng Hạnh – Học viện Ngân hàng
Tác
giả: David B. Yoffie, Renee Kim
Giáo sư David
B. Yoffie và Nghiên cứu sinh Michael Slind là người thực hiện phiên bản gốc của
case study này, “Cuộc chiến cola vẫn tiếp diễn: Coca-cola và Pepsi trong năm
2006”, HBS No.706-447. Phiên bản này được thực hiện bởi Giáo sư David B. Yoffie
và Nghiên cứu sinh Renee Kim.
Case study này
được phát triển từ những nguồn đã công bố. Các case study của HBS được phát triển
chỉ cho mục đích thảo luận trên lớp học. Các case study không dùng cho mục đích
quảng cáo, nguồn dữ liệu cơ bản, hoặc minh họa cho sự quản lý hiệu quả hay kém
hiệu quả.
Trong hơn một thế kỷ, Coca-cola và Pepsi
đã ganh đua quyết liệt để giành giật thị phần trong ngành sản xuất đồ uống trên
thế giới. Những cuộc chiến căng thẳng nhất trong cái gọi là cuộc chiến cola đã
diễn ra để giành giật ngành nước ngọt có ga (CSD) tại Mỹ trị giá 74 tỷ đô-la.
Trong một “cuộc đấu tranh được tiến hành một cách cẩn trọng” kéo dài từ năm
1975 cho đến giữa những năm 1990, cả Coca-cola và Pepsi đã đạt được mức tăng
trưởng doanh thu trung bình hàng năm vào khoảng 10%, vì mức tiêu thụ nước ngọt
có ga của cả nước Mỹ và thế giới đều tăng trưởng đều đặn từ năm này qua năm
khác. Theo ông Roger Enrico, cựu CEO của Pepsi:
“Cuộc chiến này phải được nhìn nhận như
là một trận chiến liên lục không đổ máu. Không có Coca-cola, Pepsi sẽ có một
khoảng thời gian khó khăn để trở thành một đối thủ cạnh tranh khác biệt và mạnh
mẽ. Họ càng thành công, chúng tôi càng phải nhanh nhạy. Nếu công ty Coca-cola
không tồn tại, chúng tôi sẽ cầu nguyện cho ai đó sẽ phát minh ra họ. Và ở phía
bên kia chiến tuyến, tôi chắc chắn rằng những người làm việc ở Coca-cola nói
chung sẽ nói rằng không điều gì đóng góp vào thành công ngày nay của công ty
Coca-cola nhiều bằng … Pepsi.”
Tuy nhiên, mối quan hệ đó bắt đầu trở
nên căng thẳng vào đầu những năm 2000, khi lượng tiêu thụ nước ngọt có ga trên
đầu người tại Mỹ bắt đầu giảm. Cho đến năm 2009, trung bình một người Mỹ uống
46 gallon nước ngọt có ga mỗi năm, mức tiêu thụ nước ngọt có ga thấp nhất kể từ
năm 1989. Cùng lúc đó, hai công ty này trải qua nhiều bước thăng trầm khác
nhau; Coca-cola gặp nhiều vấn đề về hoạt động trong khi Pepsi đã lên kế hoạch cho
một tiến trình mới đầy hiếu chiến hướng đến các loại đồ uống thay thế và các vụ
thâu tóm trong ngành đồ ăn nhẹ.
Khi cuộc chiến cola bước vào thế kỷ 21,
Coca-cola và Pepsi phải đối mặt với những thách thức mới: liệu họ có thể thúc đẩy
doanh thu nước ngọt có ga trong nước đang trì trệ? Làm sao họ có thể cạnh tranh
trong lĩnh vực nước ngọt không có ga đang tăng trưởng, vốn đòi hỏi phải có cách
thức đóng chai, định giá và những chiến lược thương hiệu khác? Cần phải làm gì
để đảm bảo khả năng sinh lời và tăng trưởng bền vững?
Ngành
nước ngọt có ga Mỹ dưới góc nhìn kinh tế học
Trong năm 1970, người Mỹ tiêu thụ 23
gallon nước ngọt có ga mỗi năm, và mức tiêu thụ tăng trung bình 3% mỗi năm
trong suốt ba thập kỷ sau đó (vui lòng xem
Minh họa 1). Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng này là tính sẵn có của các loại nước ngọt có ga cùng với sự xuất hiện của nhiều biến thể không đường và có hương vị phong phú. Mức giá thực (có điều chỉnh theo lạm phát) giảm khiến cho giá cả nước ngọt có ga phải chăng hơn cũng đóng vai trò quan trọng. Khi đó có nhiều đồ uống thay thế cho nước ngọt có ga, trong đó có bia, sữa, cà phê, nước đóng chai, nước ép trái cây, trà, đồ uống dạng bột hòa tan, rượu, đồ uống cho người chơi thể thao, rượu nặng, và nước uống từ vòi. Tuy nhiên người Mỹ uống nhiều soda hơn bất kỳ loại đồ uống nào khác. Trong nhóm nước ngọt có ga, phân khúc cola vẫn duy trì vị thế thống lĩnh của mình, dù thị phần của loại đồ uống này giảm từ 71% trong năm 1990 xuống còn 55% trong năm 2009. Các loại nước ngọt có ga không chứa cola bao gồm cam chanh, đồ uống kiểu Dr Pepper, cam, bia root, và nhiều loại khác. Nước ngọt có ga gồm có một hương vị cơ bản (được gọi là “concentrate” –hương vị chính), một loại chất làm ngọt, và nước bão hòa CO2. Quá trình sản xuất và phân phối nước ngọt có ga bao gồm bốn bên tham gia chủ yếu, đó là: nhà sản xuất hương vị chính, công ty đóng chai, kênh phân phối bán lẻ và nhà cung cấp.
Minh họa 1). Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng này là tính sẵn có của các loại nước ngọt có ga cùng với sự xuất hiện của nhiều biến thể không đường và có hương vị phong phú. Mức giá thực (có điều chỉnh theo lạm phát) giảm khiến cho giá cả nước ngọt có ga phải chăng hơn cũng đóng vai trò quan trọng. Khi đó có nhiều đồ uống thay thế cho nước ngọt có ga, trong đó có bia, sữa, cà phê, nước đóng chai, nước ép trái cây, trà, đồ uống dạng bột hòa tan, rượu, đồ uống cho người chơi thể thao, rượu nặng, và nước uống từ vòi. Tuy nhiên người Mỹ uống nhiều soda hơn bất kỳ loại đồ uống nào khác. Trong nhóm nước ngọt có ga, phân khúc cola vẫn duy trì vị thế thống lĩnh của mình, dù thị phần của loại đồ uống này giảm từ 71% trong năm 1990 xuống còn 55% trong năm 2009. Các loại nước ngọt có ga không chứa cola bao gồm cam chanh, đồ uống kiểu Dr Pepper, cam, bia root, và nhiều loại khác. Nước ngọt có ga gồm có một hương vị cơ bản (được gọi là “concentrate” –hương vị chính), một loại chất làm ngọt, và nước bão hòa CO2. Quá trình sản xuất và phân phối nước ngọt có ga bao gồm bốn bên tham gia chủ yếu, đó là: nhà sản xuất hương vị chính, công ty đóng chai, kênh phân phối bán lẻ và nhà cung cấp.
Nhà
sản xuất hương vị chính
Nhà sản xuất hương vị chính hòa trộn các
thành phần nguyên liệu thô, đóng gói hỗn hợp này trong những hộp nhựa nhỏ, và
chuyển chúng đến công ty đóng chai. Để sản xuất hương vị chính cho các loại nước
ngọt có ga không đường, những nhà sản xuất hương vị chính thường cho thêm chất
làm ngọt nhân tạo; với nước ngọt có ga thông thường thì các công ty đóng chai sẽ
tự mình cho thêm đường hoặc si-rô ngô có hàm lượng fructose cao. Quy trình sản
xuất hương vị chính cần tương đối ít vốn đầu tư vào máy móc, chi phí sản xuất
chung, hoặc lao động. Để xây dựng một nhà máy sản xuất hương liệu chính thông
thường, có thể bao phủ một diện tích tương đương nước Mỹ, cần từ 50 đến 100 triệu
đô.
Những chi phí quan trọng nhất đối với một
nhà sản xuất hương vị chính là quảng cáo, khuyến mãi, điều tra thị trường, và hỗ
trợ công ty đóng chai. Thông qua việc sử dụng các chiến dịch sáng tạo và phức tạp,
họ đã mạnh tay đầu tư vào thương hiệu của mình qua thời gian. Trong khi những
nhà sản xuất hương vị chính thực hiện và rót vốn vào những chiến dịch marketing
với sự tham gia của các công ty đóng chai, họ thường đảm nhận vị trí lãnh đạo
trong việc phát triển những chương trình đó, đặc biệt là trong hoạt động phát
triển sản phẩm, nghiên cứu thị trường, và quảng cáo. Họ cũng nhận nhiệm vụ
thương thảo các “hợp đồng phát triển khách hàng” (CDAs) với những công ty bán lẻ
toàn quốc như Wal-Mart.
Theo một hợp đồng phát triển khách hàng, Coca-cola hoặc
Pepsi đã cấp vốn cho hoạt động quảng bá thương hiệu và các mục đích khác để có
được không gian bày hàng. Đối với khách hàng tại những khu vực nhỏ hơn, các công
ty đóng chai đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phát triển những mối quan
hệ như thế, và họ chi trả một tỷ lệ phần trăm được thỏa thuận từ trước – thường
là 50% hoặc hơn – chi phí khuyến mãi và quảng cáo. Những nhà sản xuất hương liệu
chính thuê một đội ngũ nhân công đông đảo, những người làm việc với cả các công
ty đóng chai bằng cách thúc đẩy hoạt động bán hàng, đưa ra những tiêu chuẩn, và
đề xuất những biện pháp cải tiến hoạt động. Họ cũng thương thảo trực tiếp với
những nhà cung cấp chính của công ty đóng chai mà họ làm việc cùng (đặc biệt là
những nhà sản xuất chất làm ngọt và bao bì) để có được nguồn cung đáng tin cậy,
hoạt động vận chuyển nhanh chóng, và mức giá thấp.
Ngay khi một hoạt động kinh doanh mang
tính phân mảnh có sự tham gia của hàng trăm nhà sản xuất địa phương, ngành đồ uống
không cồn của Mỹ đã thay đổi mạnh mẽ theo thời gian. Trong số những nhà sản xuất
hương vị chính trong nước, Coca-cola và Pepsi chiếm tổng cộng 72% doanh thu của
thị trường nước ngọt có ga tại Mỹ trong năm 2009, tiếp đến là Dr Pepper Snapple
Group (DPS) và Cott Corporation (Minh họa 2, 3a và 3b). Ngoài ra, có các nhà sản
xuất tư nhân và hàng chục nhà sản xuất khác trong nước và trong khu vực.
Các
công ty đóng chai
Các công ty đóng chai mua hương vị
chính, thêm nước soda và si-rô ngô có hàm lượng fructose cao, đóng chai hoặc
đóng lon sản phẩm nước ngọt có ga cuối cùng này, và phân phối tới các mảng
khách hàng. Những công ty đóng chai cho Coca-cola và Pepsi cung cấp dịch vụ giao
hàng “trực tiếp tại điểm bán” (direct store door –DSD), một thỏa thuận theo đó những
người giao bán hàng theo lộ trình sẽ quản lý thương hiệu nước ngọt có ga này tại
các cửa hàng bằng cách tìm nơi bày hàng, sắp xếp các sản phẩm nước ngọt có ga, dán
nhãn đã được đăng ký của thương hiệu đó, và lập điểm mua hàng hoặc khu trưng
bày phía cuối lối đi. (Những thương hiệu nội địa nhỏ hơn, như Shasta và Faygo,
phân phối thông qua những kho hàng thực phẩm.) Các hợp đồng hợp tác bán hàng,
theo đó công ty bán lẻ đồng ý với hoạt động quảng cáo và những mức chiết khấu cụ
thể, để nhận được tiền thanh toán từ một công ty đóng chai, là một thành phần
chủ chốt khác trong doanh thu đồ uống không cồn.
Quá trình đóng chai đòi hỏi phải có lượng
vốn lớn và dây chuyền sản xuất tốc độ cao chỉ sử dụng cho những sản phẩm tương
tự và có kích cỡ vỏ tương đương. Mỗi dây chuyền đóng chai và đóng lon trị giá từ
4 đến 10 triệu đô, tùy thuộc vào kích cỡ và loại vỏ. Nhưng chi phí cho một nhà
máy lớn với nhiều dây chuyền và có hoạt động lưu kho tự động có thể lên tới
hàng trăm triệu đô. Năm 2010, DPS đã xây dựng xong một cơ sở sản xuất ở
California có công suất 40 triệu thùng với chi phí ước tính là 120 triệu đô. Trong
khi về lý thuyết chỉ có vài nhà máy như thế có thể cung cấp đủ công suất để phục
vụ toàn bộ nước Mỹ, mỗi công ty Coca-cola và Pepsi có khoảng 100 nhà máy cho hoạt
động phân phối khắp đất nước. Đối với các công ty đóng chai, những thành phí chủ
yếu là hương vị chính và si-rô. Những phí tổn đáng kể khác bao gồm chi phí đóng
chai, lao động, và chi phí cố định. Các công ty đóng chai cũng đầu tư vốn vào
xe tải và mạng lưới phân phối. Đối với nước ngọt có ga, lợi nhuận gộp của các
công ty này thường trên 40% nhưng biên lợi nhuận hoạt động thường chỉ vào khoảng
8%, gần bằng một phần ba biên lợi nhuận hoạt động của những nhà sản xuất hương
vị chính (Minh họa 4).
Số lượng các công ty đóng chai trong
ngành đồ uống không cồn của Mỹ giảm mạnh, từ hơn 2000 trong năm 1970 xuống chưa
đầy 300 trong năm 2009. Coca-cola là nhà sản xuất hương vị chính đầu tiên xây dựng
một mạng lưới hoạt động đóng chai nhượng quyền trên toàn nước Mỹ, Pepsi và DPS sau
đó đã bắt chước mô hình này. Một công ty đóng chai nhận nhượng quyền thông thường
có một cơ sở sản xuất và bán hàng tại một khu vực địa lý độc quyền, được bên
nhượng quyền trao cho các quyền hạn vĩnh viễn. Trong trường hợp của Coca-cola,
các quyền về đất đai không bao gồm máy bán đồ uống từ vòi – được công ty này quản
lý trực tiếp. Hợp đồng nhượng quyền gốc của Coca-cola, được đưa ra vào năm
1899, là một hợp đồng giá cố định không có điều khoản tái thương lượng ngay cả
khi chi phí thành phần thay đổi. Sau một quá trình thương thảo kéo dài, thường
đi kèm với các vụ tranh chấp pháp lý căng thẳng, Coca-cola đã điều chỉnh hợp đồng
này vào các năm 1921, 1978, và 1987. Cho đến năm 2009, 92% doanh thu hương vị
chính dành cho đồ uống đóng chai và đóng lon tại Mỹ của Coca-cola đến từ Hợp đồng
chính với công ty đóng chai của công ty này vào năm 1987 (Master Bottler
Contract), trao cho Coca-cola quyền xác định giá của hương vị chính và các điều
khoản bán hàng khác. Theo hợp đồng này, Coca-cola không có nghĩa vụ pháp lý phải
hỗ trợ các công ty đóng chai thông qua hoạt động quảng cáo hay tiếp thị. Tuy
nhiên, để bảo đảm chất lượng và giống như Pepsi, Coca-cola đã đầu tư những khoản
khổng lồ để hỗ trợ mạng lưới đóng chai của mình. Ví dụ như vào năm 2009,
Coca-cola đã đóng góp 540 triệu đô trong các khoản thanh toán tiền hỗ trợ
marketing cho công ty đóng chai hàng đầu của mình.
Bản hợp đồng năm 1987 không trao cho
Coca-cola toàn bộ quyền kiểm soát giá, mà thay vào đó, nó sử dụng một công thức
giúp ấn định mức giá tối đa và điều chỉnh mức giá hằng quý tùy vào những thay đổi
trong việc ấn định giá chất làm ngọt. Bản hợp đồng này khác với Hợp đồng chính
về hoạt động đóng chai (Master Bottling Agreement) của Pepsi với công ty đóng
chai hàng đầu của họ. Hợp đồng đó trao cho công ty đóng chai quyền hạn vĩnh viễn
được phân phối các sản phẩm nước ngọt có ga của Pepsi nhưng phải mua nguyên liệu
thô từ Pepsi theo các mức giá, điều khoản và điều kiện mà Pepsi đưa ra. Pepsi
đã thương thảo các mức giá cho hương vị chính với hiệp hội các công ty đóng
chai của mình, và thường thì mức giá cơ sở tăng theo chỉ số giá tiêu dùng
(CPI). Tuy nhiên, trong suốt hai thập niên vừa rồi, những nhà sản xuất hương vị
chính thường tăng giá nguyên liệu này cao hơn mức tăng của lạm phát (Minh họa
5).
Những hợp đồng nhượng quyền thương hiệu
với Coca-cola và Pepsi cho phép các công ty đóng chai buôn bán những thương hiệu
không có cola của các nhà sản xuất hương vị chính khác. Họ có thể lựa chọn xem
có nên buôn bán những loại đồ uống mới được một nhà sản xuất hương vị chính giới
thiệu hay không. Tuy nhiên, các nhà sản xuất hương vị chính phải vất vả để
“thúc đẩy” những công ty đóng chai bán sản phẩm của họ. Tuy vậy những công ty
này không thể bán các thương hiệu cạnh tranh trực tiếp với nhau. Ví dụ, một
công ty đóng chai Coca-cola không thể bán Royal Crown Cola, tuy nhiên vẫn có thể
phân phối 7UP nếu công ty đó không bán Sprite. Các công ty đóng chai nhận nhượng
quyền không thể quyết định xem liệu có nên tham gia vào các hoạt động marketing
thử nghiệm, chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi tại địa phương, và giới thiệu
các mẫu chai mới hay không (mặc dù họ chỉ có thể dùng những mẫu được bên nhượng
quyền cho phép). Họ cũng có quyền lên tiếng trong những quyết định về giá bán lẻ.
Vào năm 1971, Ủy ban Thương mại Liên
bang đã khởi xướng hành động chống lại tám nhà sản xuất hương vị chính lớn nhất,
tố cáo rằng việc cấp đất đai độc quyền cho các công ty đóng chai đã ngăn cản sự
cạnh tranh giữa các nhà phân phối của cùng một sản phẩm (intra-brand, nghĩa là
hai hoặc nhiều công ty đóng chai cạnh tranh trong cùng một khu vực với cùng một
loại đồ uống). Những nhà sản xuất hương vị chính lập luận rằng sự cạnh tranh giữa
các nhà phân phối của cùng một sản phẩm đã đủ mạnh để biện hộ cho việc tiếp tục
thực hiện các hợp đồng về đất đai hiện có khi đó. Vào năm 1980, sau hàng năm trời
kiện tụng, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Cạnh tranh giữa các nhà phân phối của
cùng một sản phẩm trong ngành đồ uống không cồn, giữ lại quyền cấp đất đai độc
quyền của các nhà sản xuất hương vị chính.
Các
kênh bán lẻ
Vào năm 2009, hoạt động phân phối nước
ngọt có ga tại Mỹ diễn ra khắp các siêu thị (29.1%), máy bán đồ uống từ vòi
phun (23.1%), máy bán hàng tự động (12.5%), công ty bán buôn hàng loạt (16.7%),
cửa hàng tiện dụng, cây xăng (10.8%), và những điểm tiêu thụ khác (7.8%). Các cửa
hàng tạp hóa và hiệu thuốc nhỏ chiếm phần lớn trong nhóm thứ hai. Chi phí và khả
năng sinh lời của mỗi kênh là khác nhau tùy thuộc vào hình thức phân phối và tần
suất, phạm vi phân phối, hoạt động quảng cáo và marketing (Minh họa 6).
Các loại nước ngọt có ga chiếm 12 tỷ
đô-la, tương đương 4% tổng doanh thu của các cửa hàng tại Mỹ, và cũng là một
nguồn thu đáng kể cho các siêu thị. Những công ty đóng chai tranh giành nhau chỗ
bày hàng để đảm bảo khách hàng có thể trông thấy sản phẩm của mình, và họ tìm
nhiều cách thức mới để thúc đẩy sự mua hàng tùy hứng, ví dụ như đặt những chiếc
máy làm lạnh tại quầy thanh toán. Tính ngày càng đa dạng của sản phẩm cũng như
mẫu mã bên ngoài đã gây ra sự cạnh tranh khốc liệt để có chỗ bày hàng.
Nhóm công ty bán buôn hàng loạt bao gồm
các công ty bán lẻ có chiết khấu, như Wal-Mart và Target. Những công ty này tạo
nên một kênh phân phối ngày càng quan trọng. Mặc dù họ bán các sản phẩm của
Coca-cola và Pepsi, họ (cùng với một số hiệu thuốc) cũng có thể có sản phẩm nước
ngọt có ga mang thương hiệu của riêng mình, hoặc bán một nhãn hiệu generic như
President’s Choice. Các sản phẩm nước ngọt có ga nhãn riêng thường được phân phối
tới kho chứa hàng của một công ty bán lẻ, trong khi các loại nước ngọt có ga có
thương hiệu thường được phân phối trực tiếp đến các cửa hàng. Với phương pháp
phân phối kho chứa hàng này, công ty bán lẻ này có trách nhiệm lưu trữ, vận
chuyển, buôn bán, và xếp hàng lên giá, từ đó phát sinh thêm chi phí.
Trước đây, Pepsi tập trung vào doanh thu
thông qua các đại lý bán lẻ, trong khi Coca-cola lại muốn doanh thu từ máy bán
đồ uống từ vòi phun phải cao nhất. (Thuật ngữ “vòi phun”, lúc đầu để chỉ các máy
bán soda từ vòi phun ở hiệu thuốc, đã xuất hiện ở các nhà hàng, quán ăn tự phục
vụ, và bất kỳ điểm tiêu thụ nào khác có phục vụ đồ uống không cồn bằng cốc có
dùng đầu vòi dạng vòi phun.) Sự cạnh tranh để có được nguồn khách hàng từ máy
bán đồ uống từ vòi phun trong nước rất khốc liệt, đặc biệt là trong những năm
1990. Ví dụ như vào năm 1999, người ta cho rằng các cửa hàng nhượng quyền
Burger King đã trả khoảng 6.20 đô một gallon cho sirô Coca-cola, nhưng họ nhận
được một khoản chiết khấu đáng kể trên mỗi gallon; một chủ cử hàng nhượng quyền
lớn ở Midwestern cho biết khoản chiết khấu hàng năm của người này là 1.45 đô mỗi
gallon, tương đương khoảng 23%. Nguồn khách hàng từ máy bán đồ uống từ vòi phun
tại địa phương, mà các công ty đóng chai chịu trách nhiệm trong hầu hết các trường
hợp, có khả năng sinh lời cao hơn đáng kể so với những nguồn khách hàng trong
nước nói chung. Để hỗ trợ kênh bán hàng thông qua máy bán đồ uống từ vòi phun,
Coca-cola và Pepsi đã đầu tư phát triển đầu vòi và các thiết bị khác cho dịch vụ
bán hàng, mang lại cho các khách hàng mua nước từ máy bán đồ uống từ vòi phun
hoạt động quảng cáo tại điểm bán và các hình thức khuyến mãi tại cửa hàng khác.
Sau khi Pepsi tham gia vào mảng cửa hàng
đồ ăn nhanh bằng việc mua lại Pizza Hut (1978), Taco Bell (1986), và Kentucky
Fried Chicken (1986), Coca-cola đã thuyết phục các công ty cạnh tranh như
Wendy’s và Burger King chuyển sang Coca-cola. Vào năm 1997, Pepsi đã thành lập
dịch vụ nhà hàng mới dưới tên Tricon, nhưng “đặc quyền cung cấp đồ uống” bằng máy
bán đồ uống từ vòi phun vẫn còn bị xé lẻ trong phần lớn chuỗi cửa hàng trước
khi có Tricon. Vào năm 2009, Pepsi đã cung cấp cho tất cả các nhà hàng Taco
bell và KFC và đại đa số các nhà hàng Pizza Hut, Coca-cola thì vẫn duy trì việc
làm ăn với Burger King và McDonald’s (nguồn khách hàng lớn nhất trong nước xét
về doanh thu). Sự cạnh tranh vẫn còn rất khốc liệt: Vào năm 2004, Coca-cola đã
giành được nguồn khách hàng Subway từ tay Pepsi, trong khi Pepsi lấy được nguồn
khách hàng Quiznos từ Coca-cola. (Subway là nguồn khách hàng lớn nhất nếu xét đến
số lượng đại lý.) Vào tháng 8 năm 2009, DPS giành được quyền cung cấp đồ uống
Dr Pepper tại tất cả các cửa hàng McDonald’s tại Mỹ. Tuy nhiên Coca-cola tiếp tục
dẫn đầu kênh phân phối này với 69% quyền cung cấp đồ uống trong nước, so với
Pepsi 20% và DPS 11%.
Coca-cola và DPS đã nắm quyền quyển soát
lâu dài đối với nguồn khách hàng từ máy bán đồ uống từ vòi phun trong nước,
thương lượng những hợp đồng quyền cung cấp đồ uống trong một số trường hợp (như
với các chuỗi nhà hàng lớn) trải dài trên khắp nước Mỹ hay thậm chí khắp thế giới.
Các công ty đóng chai ở địa phương hoặc phòng ban chăm sóc nguồn khách hàng mua
nước từ máy bán đồ uống từ vòi phun của tổ chức nhượng quyền chịu trách nhiệm phục
vụ những đầu khách này. (Trong những trường hợp như thế, các công ty đóng chai
nhận một khoản phí cho việc phân phối si-rô và bảo dưỡng máy móc.) Trước đây,
PepsiCo đã nhượng lại quyền bán hàng tại máy bán đồ uống từ vòi phun cho các
công ty đóng chai địa phương. Nhưng vào cuối những năm 1990, Pepsi bắt đầu một
chiến dịch thành công để lấy lại từ tay các công ty đóng chai của mình quyền
bán sirô bằng máy bán đồ uống từ vòi phun qua các công ty có nhà hàng dành
riêng cho nhân viên.
Trong kênh phân phối hàng bằng máy bán tự
động, các công ty đóng chai có trách nhiệm mua, lắp đặt, và kiểm tra máy móc,
và để thương thảo những hợp đồng với chủ đất, những người thường được nhận một
khoản hoa hồng bán hàng cho việc cung cấp chỗ để đặt máy móc. Nhưng những nhà sản
xuất hương vị chính lại cấp cho các công ty đóng chai khoản ưu đãi về tài chính
để khuyến khích họ đầu tư vào máy móc, và cũng đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của công nghệ máy bán hàng tự động. Coca-cola và Pepsi là những nhà
cung cấp nước ngọt có ga lớn nhất cho kênh này.
Các
nhà cung cấp của những nhà sản xuất hương vị chính và công ty đóng chai
Những nhà sản xuất hương vị chính không
cần nhiều yếu tố đầu vào: hương vị chính cho hầu hết các loại thức uống có cola
thông thường gồm có chất làm màu caramel, axít phosphoric hoặc nitric, hương vị
tự nhiên, và caffeine. Các công ty đóng chai mua hai yếu tố đầu vào chính: vỏ
(bao gồm lon, chai nhựa, chai thủy tinh), và chất làm ngọt (bao gồ si-rô ngô có
hàm lượng fructose cao và đường, cũng như các chất làm ngọt nhân tạo như đường
hóa học). Phần lớn nước ngọt có ga tại Mỹ được chứa trong những lon kim loại
(56%), còn lại là chai nhựa (42%) và chai thủy tinh (2%). Lon là một chất liệu
chứa hấp dẫn vì chúng dễ gia công và trưng bày, nhẹ, bền và có thể tái chế được.
Vỏ nhựa, được đưa ra vào năm 1978, cho phép tạo ra chai lớn hơn và kích cỡ đa dạng
hơn. Các chai PET dùng một lần có khối lượng 20 ounce (0.57kg), được đưa ra vào
năm 1993, đã dần trở nên phổ biến; vào năm 2009, chúng chiếm 35% lượng nước ngọt
có ga (và 52% doanh thu từ nước ngọt có ga) tại các cửa hàng tiện dụng.
Chiến lược hướng đến nhà sản xuất lon của
các công ty sản xuất hương vị chính thể hiện mối quan hệ với nhà cung cấp của họ.
Coca-cola và Pepsi đã thương thảo thay mặt cho mạng lưới các công ty đóng chai
của mình, và nằm trong số những khách hàng lớn nhất của ngành sản xuất lon kim
loại. Trong những năm 1960 và 1970, cả hai công ty đều quản lý một phần quá
trình sản xuất lon của mình, nhưng cho đến năm 1990 thì họ đã rút khỏi lĩnh vực
đó. Về sau, thay vào đó, họ tìm cách thiết lập những mối quan hệ lâu dài ổn định
với nhà cung cấp. Vào năm 2009, những nhà sản xuất lon lớn gồm có Ball, Rexam (thông
qua công ty con American National Can), và Crown Cork & Seal. Lon kim loại
về cơ bản là một hàng hóa, và thường có hai hoặc ba nhà sản xuất cạnh tranh cho
mỗi hợp đồng.
0 Response to "CASE STUDY - CUỘC CHIẾN COLA VẪN TIẾP DIỄN: COCA-COLA VÀ PEPSI TRONG NĂM 2010 - KỲ 1"
Đăng nhận xét